Suy tư Tin Mừng Chúa
Nhật thứ 33 mùa Thường niên năm A 16-11-2014
“Tôi cảm thương, vì hai chúng ta,”
Tuổi đang xuân, mà
bỗng sang già”.
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Mt 25:
14-30
Cảm thương tuổi đang xuân hay vào lúc đã sang già, vẫn là tình-tự của
nhiều người trong Đạo Chúa. Tình-tự ấy, nay thánh-sử Mát-thêu cùng sách Cách
Ngôn diễn-tả bằng giòng văn thân thương, truyền cảm, rất dụ-ngôn.
Bài đọc 1 hôm nay, Sách Cách Ngôn ngợi ca người vợ hiền, là đoạn sách
đứng riêng với hai bài đọc kia, chứa đựng chủ đề nói từ tuần trước, đó là: việc
sử dụng thời gian trước ngày Đức Chúa lại đến.
Việc “ca ngợi người vợ hiền”, cần được quan tâm một cách cẩn thận. Dù
việc ca tụng mang nhiều đặc-thù tôn-kính, lời khen-ngợi ấy khó mà tránh khỏi
tính-cách nệ-cổ của sách Cựu Ước, là sách vẫn coi người vợ thuộc quyền sở-hữu
của chồng mình. Vai-trò người vợ, đã ở thế lâm-nguy, cả khi bà ấy nói hay làm
bất cứ điều gì.
Thời xưa, các cụ nhấn mạnh nhiều đến tính cần-cù, cần-mẫn. Trong khí đó,
lại ít nói đến vẻ diễm-kiều; và thiếu vắng tính tích-cực về giới-tính theo cách-thức
mà người đời sau vẫn đề-cao, nơi bí tích hôn phối. Nhiều cộng-đoàn giáo xứ,
phải tạo thế quân bình khi đặt đọc bài này ở thế song-song với các bài nói về
“người chồng gương-mẫu”, phối-kết với vợ mình.
Có lẽ, hay hơn cả, nên hiểu đoạn sách trên qua nhãn-giới –theo một chừng
mực nào đó- có phản-tỉnh, và suy-tư rộng-rãi hơn, về mối tương-quan giới-tính,
trong bối-cảnh niềm tin.
Trình thuật thánh Matthêu, qui chiếu đến phần hai của loạt truyện dụ-ngôn
nói về thời-gian đợi chờ, bắt đầu vào tuần tới. Dù đặt dưới bất cứ điều gì xuất
từ miệng của Đức Chúa, dụ-ngôn về sử-dụng tài-năng, như thấy rõ trong Tin Mừng
Mat-thêu (và, Lc 9: 12-27), rõ ràng có lien-quan đến việc: làm sao để sống cho
xứng-hợp, trong khi ta đợi chờ ngày Chúa đến lại.
Thế-hệ tín-hữu Đức Kitô thuở đầu đời của Hội-thánh, vẫn mong ngóng Chúa
trở lại rất sớm. Vì thế nên, Tin Mừng thánh Mat-thêu đã phản-ánh mức-độ thời-gian
trong ngóng đợi đã mòn mỏi và đuợc thay thế bằng sự nghiêm-ngặt mà mỗi kẻ tin
sẽ phải tính đến. Nghiêm-ngặt, trong sử-dụng quà tặng ân-sủng mà họ nhận được,
từ Đức Chúa.
Dụ-ngôn Chúa kể hôm nay, mang dáng vẻ rất “tư bản” –mặc dù ở đây Chúa
không hỗ-trợ cho một hệ-thống tài-chánh nào hết- như có người tưởng đoán. Ở một
số dụ-ngôn khác, (như Lc 16: 1-8) Đức Chúa chỉ muốn cho thấy đường-lối giản-đơn
mà dân chúng thường hành-xử trong cuộc sống hằng ngày.
Chúa kể như thế, là để minh-hoạ phong-cách mà người người phải hành-xử,
trong Vương Quốc Nước Trời. Kể về người chủ phải đi xa, là kể rằng doanh-gia nọ
không muốn cho tài-sản của mình bị ứ-đọng, chẳng gây lời, trong lúc mình trẩy
đi xa.
Vì thế nên, ông đã uỷ-thác việc quản-lý tài-sản của mình cho 3 người đầy
tớ. Ông chỉ-định cho mỗi người một công việc tuỳ vào sự mẫn-cảm, của chính họ.
Tức là, mỗi người tôi tớ được trao phó người thì 5 quan tiền, kẻ 2, kẻ kia lại
chỉ 1 quan tiền, mà thôi.
Ở đây nữa, chỉ 1 quan thôi cũng đã tượng trưng cho một lượng tiền khá
lớn. Ban đầu, một quan tiền có ý chỉ cân-lượng của con người. Về sau, qua quá-trình
sử-dụng, mới nói đến phẩm-chất hoặc kỹ-năng bên trong của người nào đó. Tất cả
ý nghĩa, là do từ dụ-ngôn này.
Do người chủ có việc phải đi xa trong một thời-gian, nên chỉ-sỗ lãi-xuất
đã nâng cấp doanh-thương của hai đầy tớ đầu lên đến 100%, gia-tăng dựa trên mức-độ
tin-tưởng đặt để nơi họ.
Thế nên, phần thưởng dành cho hai người được tiếp “đi vào niềm vui của
chủ”, theo tính biểu-tượng mà thánh Mat-thêu từng viết trong các dụ-ngôn đầu,
có nghĩa là họ được đón chào để đi vào bàn tiệc với Đấng Mê-sia, nơi Nuớc Trời.
Thất bại của người tớ thứ ba, là người chỉ biết đem chôn giấu quan tiền
lẻ nơi lòng đất, mang ý-nghĩa, là: anh chẳng thiết-tha những gì mà chủ anh kỳ-vọng.
Tức là: kinh-doanh với số tiền đã trao-phó, ngõ hầu làm lợi. Anh cũng chẳng bận
tâm đem nó bỏ vào ngân-hàng, để sinh lợi.
Làm như thế, anh tưởng rằng chủ của anh vốn có tính so đo/hơn thiệt sẽ
hãi sợ, hoặc khủng-hoảng. Thế nên, anh nghĩ: tốt hơn cả, là đem trả cho chủ y
nguyên lượng tiền, đã giao khoán. Dù anh không tỏ vẻ gì là tròng tréo, bất lương;
nhưng, vẫn kéo theo một phạt vạ, là bởi anh chỉ để ý đến mối an-toàn tư riêng,
hơn là tạo nên những gì người chủ của anh, vẫn đòi-hỏi.
Chia sẻ Lời Chúa qua dụ-ngôn, các vị giảng-thuyết cũng nên thận-trọng
đừng áp-dụng quá gắt-gao vai-trò ngưòi chủ với Đức Chúa. Bởi, thật sự, dụ-ngôn
chỉ đưa ra loại-hình rất đặc-thù về tôn-giáo. Đặc thù, mà người thời xưa vẫn
mang theo, khi họ tạo nên hình-ảnh rất khiếp sợ, về Thiên Chúa.
Khiếp sợ, khi họ chỉ mỗi ưu-tư về chuyện không làm gì sai quấy để Chúa
khỏi ra án phạt. Thái-độ ấy, làm ta chểnh-mảng quên đi những gì mà Chúa thực sự
muốn tín-hữu thời buổi hôm nay, những người đang kinh-doanh, hoặc đánh liều
trong nhiều việc, đang thực hiện “các động-thái nặng cân hơn về những gì có liên-quan
đến luật-pháp, như: “công-lý, lòng xót thương và tin tưởng” (x. Mt 23: 23).
Các quà tặng ân-sủng mà Chúa trao-phó cho ta, như quan-năng đầu óc, lẫn
tứ chi, cần được thực-thi một cách sinh-động, nếu không muốn chúng trở nên héo
quắt, hao mòn.
Bài đọc 2, rút từ thư thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Thessalônikê 5: 1-6,
rất ăn khớp với đề-tài nói ở đây, theo nghĩa: các kẻ tin –với cung-cách của
“người thời nay”- vẫn phải luôn tỉnh-táo suy tư.
Phải năng-động và cảnh-giác, hơn là “ngủ quên”, trong đêm tối, mới hiểu
được điều Chúa muốn nói.
Cùng cảm-nghiệm nỗi niềm yêu thương tương-quan giữa vợ-chồng hoặc chủ-tớ,
diễn rộng ở dụ-ngôn có công-bằng chính-trực, cũng nên ngâm tiếp lời ca thi tứ ở
bài thơ, những hát rằng:
“Tôi cảm thương, vì
hai chúng ta,”
Tuổi đang xuân, mà
bỗng sang già.
Đêm nào tôi mộng
buồn riêng gối,
Anh đã nằm yên dưới
mộ hoa.”
(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)
Niềm cảm thương kia, không còn lộ rõ nơi “cặp mắt ngày xưa” nữa, nhưng
được diễn-tả cả ơn thi-ca, văn-học lẫn tình-trường ở đời. Ở nơi đó, người người
vẫn cảm-kích hoặc bất-mãn nơi “mộng buồn”, dưới “mộ hoa” cuộc đời, của nhiều
người rất hôm nay.
Lm Richard Leonard
sj
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment