Suy
Tư Tin Mừng trong tuần thứ 14 thường niên năm A 09/7/201
Tin
Mừng (Mt
11: 25-30)
Khi
ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói:
"Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
"Cha
tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha;
cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc
khải cho.
"Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có
lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì
ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."
“Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng,”
“mà lòng anh rào rạt mãi không thôi.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Tiếng sóng đây, nào thấy phát từ sông Ngân, vẫn im lìm! Lòng anh đó, rạt
rào mãi không thôi, cũng là nhờ tình Chúa đến với ta, như làn sóng!
Trình thuật thánh Mát-thêu nay cũng rạt rào, như sóng vỡ ào. Vỡ ào ào,
không chỉ là “tiếng sóng” của mỗi Sông Ngân. Mà, còn là giòng chảy Tân Ước có
thánh Mátthêu diễn đạt lịch sử, trọng tâm đặt nặng vào cuộc đời Chúa làm người,
mang thân phận con người, rất Do thái.
Là đệ nhất thánh sử viết Tin Mừng rất lớp lang, thánh Mátthêu đã đánh
bật điều mình tập trung viết ở 5 bài giảng thuyết -hay chương đoạn- về đời sống
cộng đoàn rất Kitô, trong đó có: 1. Giá trị đạo đức. 2. Sứ vụ công khai. 3.
Chiều sâu chiêm niệm. 4. Hiến chương tương quan. 5. Nguyện vọng tối hậu.
Chương/đoạn đây, tựa hồ giáo lý bỏ túi về đời sống người tín hữu, không
chỉ dành cho mỗi cộng đoàn Mátthêu thôi, mà cho bất cứ cộng đoàn nào khác, vào
mọi lúc. Thánh Mátthêu viết, là để tín hữu theo chân Đức Giêsu biết rằng Chúa
cũng là người Do thái, rất chính gốc.
Các tuần sắp tới, Hội thánh sẽ chọn những bài lấy từ “Bài Giảng huấn”
thứ 3, qua đó tác giả dùng phong cách viết sử của người Do thái, hầu chứng tỏ
cho thấy cung cách sống đời nguyện cầu, rất chiêm niệm. Đó là lối sống Chúa
từng trải. Là, cách thức nguyện cầu rất sống động. Có lời thơ trữ tình. Có ý
nhạc lãng mạn. Có truyển kể dụ ngôn, bài “vãn” rất bi ai. Vãn than, niềm riêng
của dân con nay được chọn.
Khác mọi người, khi viết Tin Mừng, thánh sử Mátthêu chú tâm nhiều đến
cung cách rất âm nhạc. Cụ thể là, thánh nhân thích nói đến sậy, đến sáo, đến
ống tiêu, điệu nhảy, bài hát buồn. Đến cả ca khúc, bản nhạc, nhạc cụ có hơi thở
thổi vào, tạo âm thanh. Nói tóm lại, cũng là thể loại na ná giống James Galway!
Nghĩa là, vẫn cứ kể cho ta nghe hai loại nhạc, rất đối chọi. Loại thứ nhất, là
âm nhạc có thể loại những than cùng thở, rất buồn nản. Kế đến, là âm nhạc lê
thê, tê tái, nức nở nhưng vẫn vui sống. Thánh nhân dùng nhạc làm biểu tượng, để
ta suy và nghĩ về cuộc sống của riêng ta và đời Chúa.
Thông thường thì, nơi Tin Mừng theo thánh Mátthêu, vẫn có cái gì đó tựa
như lời thở than ở hậu trường cuộc sống, của mỗi người. Để từ đó, thánh nhân
nhấn mạnh thêm rằng: ở nơi Chúa và nơi ta, luôn có những thời khắc lê thê, rất
kể lể. Thời khắc, khúc đoạn cuộc đời, ta trải nghiệm nhiều về sự ra đi tìm đến
với nhau. Tìm, sự tử tế. Tìm, chữa lành. Tìm, cách hành xử bén nhạy làm nền, để
Chúa đỡ nâng hỗ trợ, hết mọi người.
Rải rác đó đây, là những vãn than ở chương 11 và 12, qua đó thánh sử còn
tặng thêm cho ta 4 lời kể về Đức Chúa, như sau:
Lời kể thứ nhất, Chúa nói: "Các anh cứ về thuật lại cho ông
Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người
cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe biết
Tin Mừng.” (Mt 11: 4-5) Lời kể đây, là lời mừng sự sống, chốn Galilê, của
người Do thái. Lời kể này, là lời về tình thương yêu kẻ nghèo hèn, túng thiếu.
Những người luôn cần đến người khác biết đến mà giúp đỡ.
Lời kể thứ hai, Chúa thưa: “Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không
cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những
người bé mọn.” (Mt 11: 25-27) Thốt lời này, Chúa mừng cho cuộc sống dồn
dập, cứ đập mạnh vào “làn da trống” cốt đề cao kẻ tầm thường, không vai vế, cũng
chẳng có ai đoái hoài, ỏ ê, biết đến, hoặc quan tâm. Cuộc đời họ, như cơn gió
thoảng, rất thoáng chốc. Chỉ sống qua loa, chầm chậm cả vào khi bị cấp trên
thúc bách làm cực đến chết, vẫn cứ vui sống tử tế, với mọi người. Sống âm thầm.
Nhưng rất vui vì có Chúa, có mọi người cùng vui. Dù đời sống rất cực, họ cũng
chẳng cần gì thêm.
Lời kể thứ ba, Chúa lại bảo: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ
gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn
thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.” Xem như thế, Chúa rất
cảm thông, quan tâm đến người nào biết dùng khả năng rất hạn chế, dễ dập bể, để
dựng xây đời mình cho tử tế. Dù thực tế, là chuỗi ngày dài sống rất qua ngày.
Lời kể đây, đích thực là kể lể mang tính cách Do thái. Hệt như các trích đoạn
từ sách tiên tri Ysaya, cũng lê thê, kể lể khá lễ mễ.
Lời kể thứ 4, Chúa còn phán: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha Tôi,
Đấng ngự trên trời, người ấy mới là anh chị em tôi. Là mẹ tôi." (Mt
12: 50) Là, anh chị em và là mẹ Tôi, không chỉ mang ý nghĩa một gần gũi huyết
tộc, thôi. Nhưng, còn được quan tâm đưa vào cuộc sống gia đình rất hạnh phúc.
Bởi, Chúa Cha chỉ gần cận những người hèn kém, bé nhỏ, đơn độc. Bởi gần cận,
nên Chúa chấp nhận sống giữa phiền toái, bức bách của cuộc sống, vẫn kéo dài cả
đời người.
Quả là thế. Tiếng trống vang, vẫn còn thấy nơi hậu trường cuộc đời.
Tiếng trống dồn, lại là âm vang cuộc sống của người cùng khổ, đang lẩn khuất ở
đâu đó, thúc bách ta đến với họ, để cùng vui. Vui mà sống, cả vào lúc có nhạc
buồn nhè nhẹ, ai oán. Trầm lắng. Vui mà sống, cả vào khi có người phê phán lối
sống Đạo của riêng ta.
Vui mà sống, vì chính Chúa đã dùng thánh Mátthêu để viết lên Tin Mừng
theo cung cách của người Do thái mà nói: đời người cũng rất vui và đáng sống.
Vui mà sống, vì tất cả mọi bi ai sầu buồn chỉ nằm ở phía sau hậu trường chỉ xảy
ra trong thoáng chốc. Còn, niềm vui lại luôn ở phiá trước, không bao giờ biến
mất.
Trong tiểu thuyết có tựa đề ”Bài hát buồn về nỗi sầu thiên thu”,
tác giả Wang Anyi có viết một câu như thế này: “Không biết cơ man nào mà kể
về các thế giới nhỏ bé chẳng hề thay đổi, lại được dùng làm bản lề cho những
đổi thay diễn ra ở thế giới bên ngoài.” Tác giả đây muốn nói về những “mẩu
vụn suy tư xuất từ cuộc đàm thoại nghiêm túc, hệt như lớp lá ngoài quăn tít của
mớ cải bẹ xanh hoặc như hạt cát nhỏ trong bị gạo.” Đó, là nỗi buồn của cuộc
sống. Đúng vào lúc hạt mưa lác đác rơi nơi cửa sổ viết thành chữ “tình buồn”
trên mặt kính. Tình buồn ấy, vẫn gặm nhấm mọi đức tính kiên nhẫn/chịu đựng, để
còn bước qua một ngày mới. Một ngày lại có thêm những vãn than, về cuộc đời.
Cùng một lúc, lại thấy có cốt tuỷ độc nhất vô nhị chẳng đổi thay. Không
chịu ảnh hưởng bởi lịch sử. Hệt như kinh nghiệm về niềm riêng của ai đó. Có ca
từ và lời kể đầy rẫy những trữ tình của sự sống. Thứ trữ tình còn lớn hơn cả
lời kể của chính ta.
Ở chương 13, thánh Mátthêu lại đã đưa ra lời ca vang vọng vào với giòng
chảy âm nhạc của chính trình thuật Tin Mừng, do mình viết. Lời ca ấy, thánh sử
gọi là truyện dụ ngôn, rất kể lể. Và, cả hai -âm nhạc cùng lời kể dụ ngôn- vẫn
ăn khớp đi đôi với nhau, thành trình thuật. Thành một Tin Mừng mang tính chất
rất Mátthêu. Tính chất ấy, ta còn thấy ở phụng vụ Lời Chúa, vào những tuần kế
tiếp.
Trong khi chờ đợi, hãy ngâm lên lời thơ tình kể lể rất lãng mạn của thi
nhân vẫn còn ai oán:
“Anh đã gặp hồn em đương chới với,
Bến Mê Hà trên giải nước mênh mang.
Anh đã đón tình em bay phất phới,
Như hương trăng đằm thắm cõi không gian.”
(Hàn Mặc Tử - Sáng láng)
Thơ sáng láng, chuyên chở linh hồn đương chới với, vẫn là lời kể lể,
cũng vãn than, ai oán như lời thơ của người Do thái, rất Mátthêu. Lời thơ ấy,
nói về cuộc đời của Đức Chúa rất trữ tình, với người đời.
Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá
lược dịch.
No comments:
Post a Comment